Bệnh Marek ở gà do nhà khoa học Hungary phát hiện năm 1907. ở Việt Nam, bệnh Marek ở gà xuất hiện vào năm 1978 với tên gọi “teo chân gà, “ung thư gà, “hội chứng khối u”… Bệnh gây nên bởi virus Herpes type B. Phương thức lây truyền chính là qua đường hô hấp và ăn uống. Những vẩy bụi da và lông gà nhiễm bệnh Marek giữ được khả năng nhiễm bệnh tới hơn một năm, gà con thường dễ nhiễm bệnh. Sự lây nhiễm còn qua dụng cụ chăn nuôi hoặc do người nuôi mang mầm bệnh từ khu chuồng nuôi này sang khu chuồng nuôi khác.
1. Lứa tuổi bị bệnh
– Gà từ 3-4 tháng tuổi
2. Nguyên Nhân gây bệnh
– Bênh do virus herpes gây ra
3. Triệu chứng
Bệnh Marek thường ủ bệnh sau khi nhiễm 3- 4 tuần ,tiến triển chủ yếu ở hai thể cấp tính và mãn tính:
a) Thể cấp tính chủ yếu ở gà 4 – 8 tuần tuổi, có thể sớm hơn. Bệnh ít có triệu chứng điển hình, ngoài hiện tượng chết đột ngột. Tỷ lệ chết thường cao, có khi tới 20 – 30%, thường thể hiện triệu chứng ủ rũ và gầy yếu trước khi chết. Gà thường bỏ ăn, ỉa phân lỏng và giảm tỷ lệ đẻ, đi lại khó khăn, bại liệt, xã cánh một bên do viêm dây thần kinh vận động.
b) Thể mãn tính hay thể cổ điển chủ yếu xảy ra ở gà 4 – 8 tháng tuổi thường ở hai thể, thể thần kinh và thể mắt.
– Thể thần kinh: gà bệnh đi lại khó khăn, liệt nhẹ rồi dần dần bại liệt hoàn toàn. Đuôi gà có thể bị rủ xuống hoặc lệnh sang một bên. Cánh sã xuống một bên hoặc cả hai bên.
– Thể viêm mắt: Trong nhiều ổ dịch gà thường viêm mắt. Bệnh bắt đầu bằng hiện tượng viêm mắt nhẹ. Con vật tỏ ra rất mẫn cảm với ánh sáng, chảy nước mắt trong. Dần dần viêm màng tiếp hợp rồi viêm mống mắt. Mủ trắng đóng dầy khoé mắt, khả năng nhìn kém dần, không mổ trúng thức ăn và cuối cùng có thể bị mù.
4. Bệnh tích điển hình
– Sự tăng sinh của các cơ quan nội tạng, nhưng thường tập trung ở Gan với những
khối u màu trắng xám nổi lên trên bề mặt
5. Biện pháp phòng và điều trị
Bệnh không có thuốc chữa đặc hiệu.
Cần thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh sau đây :
Khi chưa có dịch xảy ra:
– Tiêm vắc xin phòng bệnh Marek bắt buộc cho gà con 1 ngày tuổi dùng để sinh sản (gà ông bà, bố mẹ, gà nuôi lấy trứng) tại cơ sở ấp trứng.
– Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng để ngăn chặn bệnh Marek lây lan trong khu chuồng nuôi. Hàng ngày quét, nhặt thu dọn lông và đốt hết lông vì vi rút tồn tại lâu trong chân lông.
– Đối với các trại gà chăn nuôi công nghiệp nhất thiết phải có khu riêng biệt nuôi gà mái đẻ và khu nuôi gà con, phải tuyệt đối chấp hành nguyên tắc: cùng nhập, cùng xuất (gà đưa vào nuôi cùng một lúc, xuất ra cùng một lúc). Sau khi xuất chuồng phải tiến hành tổng tẩy uế chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi bằng các loại thuốc khử trùng ,sau đó chuồng trại phải để trống ít nhất 1 tháng. Riêng đối với đàn đã nhiễm bệnh trước đó để trống chuồng ít nhất 3 tháng và thường xuyên vệ sinh tiêu độc khử trùng.
– Thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Chú ý không nuôi gà lớn, gà con lẫn lộn.
Khi có bệnh xảy ra:
– Giám sát phát hiện sớm;
– Cách ly đàn mắc bệnh, không được vận chuyển gà trong đàn nhiễm bệnh ra ngoài;
– Tiêu huỷ toàn bộ đàn mắc bệnh (bằng cách đốt, sau đó chôn giống như đối với bệnh cúm gia cầm), đồng thời xử lý các chất tồn dư (phân, rác vv..);
– Vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng trại định kỳ 1 – 2 lần/1 tuần;
– Cấm nhập gà giống về nuôi trong thời gian xử lý đàn gà bệnh;